Đang vẩn vơ thì nhà văn Nguyễn Mạnh Hùng í ới " Đã nhận được Tạp chí VNQĐ chưa"?. Ấy là mình có cái ký in trên TC số tháng 6 . Nghĩ mà buồn cười thời buổi công nghệ thông tin toàn cầu đến cái hắt hơi của Tổng thống Obama hoặc cái sẩy chân khi luyện võ karate của Phutin, hay người đẹp Thủ Tướng Thái Lan long trọng tiếp cụ Tổng nhà ta như thế nào thì chỉ trong ít phút đã lan tỏa toàn cầu. Vậy mà TC đã xuất bản gần nửa tháng vẫn chưa đến tay, ngẫm mà buồn cười. Lại nhớ câu không biết của ai nói" Nước mình nó thế" Ừ nhỉ. Đúng lúc lẩn vẩn thì
nhân viên bưu điện vác sách đến . Không chỉ là một cuốn những hẳn 10 cuốn lận . Chà chà không lý gì mà không khoe, hay thì không hay nhưng mà là oai, đấy là bản chất Việt . Cái sự háo danh đã là "nan y" rồi " Nước mình vẫn thế". Thế thì phải Pots ngày hầu cá bác.
nhân viên bưu điện vác sách đến . Không chỉ là một cuốn những hẳn 10 cuốn lận . Chà chà không lý gì mà không khoe, hay thì không hay nhưng mà là oai, đấy là bản chất Việt . Cái sự háo danh đã là "nan y" rồi " Nước mình vẫn thế". Thế thì phải Pots ngày hầu cá bác.
Khe ..khe ..Cám ơn các bác đã quan tâm đến nhà em ạ. Bác nào bận quá thì lươn lướt cũng vui cho nhà cháu lắm rồi!
Những người làm tổ quốc xanh thêm
Ghi chép: CÔNG THẾ
Có một nhà thơ đã nói về lính Trường Sa là “ Những người kê Tổ Quốc cao
thêm”, còn ở đây giữa đại ngàn trập trùngTây Bắc có những người đã từng là lính
Trường Sa, lính Trường Sơn, và các thế hệ đồng đội họ ngày đêm đang miệt mài làm
Tổ Quốc xanh thêm, đó là những người công nhân Apatits Việt Nam…
Cách đây ít
tháng Giám đốc nhà máy tuyển quặng Apatít Tằng Loỏng thuộc Công ty Aptits Việt
Nam Nguyễn Trọng Phú gọi điện nhã ý mời đến thăm, qua điện thoại giọng anh có
vẻ phấn khích lắm: “ Ông xuống chơi đi, có nhiều cái chắc ông sẽ thích...” lại
còn bật mí: “Chúng tôi mới hoàn thành một đề án tiền khả thi cấp Nhà nước, đề
tài này đã được Hội đồng khoa học chấp nhận và đang được áp dụng thực tế triển
khai.”. Trời ạ! vui vẻ thế ai mà chả thích. Tôi bấm bụng nghĩ, chắc còn nhiều
điều đang bí mật nên ông bạn cựu binh Trường Sa, kỹ sư tuyển quặng sáng giá này
mới xăng xái thế! Rất may, đúng dịp tham dự trại viết do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức tại Sa Pa ,
chuyến đi điền dã Công ty Apatít, nhà máy tuyển Tằng Loỏng, tôi mới đến thăm
anh Phú và những người công nhân đâng ngày đêm làm việc ở tuyến đầu biên cương
này.
Đã nói đến Lào Cai thì không thể không nói
đến đến Aptits. Chuyện những viên “vàng nâu” có nguồn gốc từ mỏ Apatits lớn
nhất đất nước làm giầu cho đồng ruộng Việt Nam và xuất khẩu tới nhiều nước
trên thế giới thì rất nhiều người biết nhưng chuyện người đầu tiên tìm ra viên
quặng Apatít rất ít người hiểu rõ. Đó là câu chuyện đầy chất ly kỳ, nhuốm màu
huyền bí: Mùa hè năm
1924 ông thày cúng Trần Văn Nỏ, người dân tộc Tày ở Làng Hẻo xã Cam Đường. Trong
một lần đi cúng cho một nhà ở bản xa không kịp về trong đêm ông phải ngủ lại
giữa rừng. Để xua đi lạnh giá, hoang vắng của rừng già ông đã gom củi để sưởi,
kê đá để nấu nước. Những tia lửa màu xanh phát ra từ những hòn đá làm ông giật
mình, vùng chạy. Những ngày sau đó tia lửa ma mị từ những hòn đá “ma” đã làm
ông rồi bời tâm trí, ông kể chuyện đó với dân làng, rồi mười đồn trăm, trăm đồn
ngàn câu chuyện đó lan truyền đến tai công sứ Lao Kay, viên công sứ cho người
kiểm tra và biết được vùng đất này có mỏ quý. Chuyện được báo lên tòa Khâm sứ
Bắc Kỳ và người Pháp đã gấp rút tổ chức nghiên cứu, khảo sát. Từ năm 1931 đến năm 1933 đã có 11 đoàn
kỹ sư Pháp sang triển khai việc thăm dò, khảo sát, khai thác mỏ, rồi công bố
bản đồ trữ lượng Apatít Lào Cai. Chúng
tiến hàng ra sức chiêu dụ ngươi dân khắp nơi về làm phu khai thác mỏ vơ vét tài
nguyên về làm giầu “ Mẫu quốc”. Bị bóc lột sức lao động thậm tệ,lại sống trong
cảnh đói rét, bệnh tật, nhiều người đã ngã nước chết, cuộc sống người dân chìm
trong tăm tối. Vì thế đã từng có câu ca rằng “ À ơi! Tiếng đồn Mỏ Cóc thảnh
thơi / Lên đây chỉ thấy những xơi cặc bò /Thằng Tây đầu nhỏ bụng to/ Luôn mồm
chửi “mẹc, xà lù, cu soong”.
Phải đến sau hòa bình lập lại, năm 1955 tài
nguyên Apatít mới thực sự được trở về tay nhân dân ta, những người dân của một
nước độc lập.
Tìm hiểu về nhà
máy Tuyển, tôi được biết mỏ Apatít được phân
bố dọc theo bờ phải sông Hồng thuộc địa phận Lào Cai, có chiều dài hơn 100km, bắt
đầu từ phía Bắc thuộc huyện Bát Xát giáp biên giới Trung Quốc đến phía đông Nam
thuộc xã Bảo Hà – Bảo Yên - Lào Cai, chiều dày thân quặng hơn 200m, rộng từ 1-
4 ky lô mét. Theo các tài liệu đánh giá tổng trữ lượng bể quặng trầm tích này
theo khảo sát đánh giá đạt khoảng 2,55 tỷ tấn. Do hàm lượng quặng mỗi một thân
khác nhau, thành phần lý hóa cũng khác nhau nên được phân làm bốn loại. Loại
một có hàm lượng lân (P2O5) từ 28 đến
40%; loại hai từ 18 đến 25 % ; Loại ba
13 đến 18% ; Loại bốn từ 8 đến 10%. Đã quý thường lại hiếm, ở đây cũng vậy. Theo
kết quả khảo sát thăm dò địa chất đánh giá trữ lượng quặng loại một không vượt
quá 31 triệu tấn, còn lại chủ yếu là quặng loại 2 và loại 3. Trong khi đó hàm
lượng quặng đưa vào sản xuất phân bón phải đạt được hàm lượng từ 30 đến 33% P2O5,
độ ẩm dưới 15%, chính bởi lẽ đó công nghệ tuyển khoáng làm giàu quặng buộc phải
ra đời để biến nguồn quặng nghèo loại 2,3 thành nguyên liệu hàm lượng cao phục
vụ cấy trồng.
Nhà máy tuyển là móc xích quan trọng, bởi công nghệ
tuyển làm giàu quặng là xương sống cho sự phát triển của công ty. Ai cũng biết
không thể vác xẻng, cuốc ra đào xúc đem về mà dùng được. Xuất bán quặng thô để
mua phân bón, khác nào đổi vàng lấy ngãi, đó là bài học đắt giá của vòng luẩn
quẩn đói nghèo “bán lúa non” đã từng xảy ra nhiều năm. Đảng và Chính phủ đã chủ
trương quyết tâm xây dựng nhà máy tuyển vào những năm của thập niên 80. Con
đường gập ghềnh khúc khuỷu của những năm
tháng gian khổ ấy còn in đậm trong ký ức của nhiều lớp thợ mỏ. Kỹ sư Nguyễn
Trọng Phú thuộc một trong những lớp người như thế. Anh khiêm tốn khi nói về
mình nhưng ai cũng biết là người có thâm niên trong nghề tuyển khoáng. Được Ban
giám đốc Công ty giao cho làm giám đốc nhà máy, nhạc trưởng trong dàn hợp xướng,
mà bản hùng ca ấy đã cất vang những khúc trầm hùng lan tỏa. Chất xông xáo của
người lính cộng với kiến thức hiểu biết rộng, giỏi nghiệp vụ chuyên môn cùng
với men say đam mê nghề nghiệp đã tạo nên phẩm chất một nhà quản lý trong anh.
Anh là chủ của nhiều đề tài sáng kiến hợp lý hóa trong sản xuất được áp dụng làm
lợi hàng chục tỷ đồng cho đơn vị. Là chiến sĩ thi đua toàn quốc, đã vinh dự
được nhận bằng “Lao động sáng tạo”và “ Bằng sáng chế” cấp Nhà nước, được Chủ
tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba.
Biết Phú từ
ngày là quân tình nguyện trên đất bạn truy quét tàn quân Khơ Me Đỏ tại
Campuchia, rồi ít năm sau nghe tin anh đã ngang dọc trên tàu tuần tiễu bảo vệ
quần đảo Trường Sa “ Kê Tổ quốc thêm cao” chiến đấu oanh liệt chống quân cướp
đảo. Đi qua bom đạn bề bề như thế! Bọn hải tặc thâm độc ác hiểm như thế! Sóng
gió mênh mông mờ mịt tưởng người lính nhỏ bé ấy đã chìm trong sóng dữ biển
khơi. Nguyễn Trọng Phú trở về vẹn nguyên. Năm năm trên giảng đường trường Đại
học Mỏ - Địa chất đã cho anh một kho kiến thức ăm ắp và nuôi dưỡng niềm đam mê
góp sức nhỏ bé vào nghề chế biến tài nguyên khoáng sản. Chính cái chất đam mê
hối thúc, khi ra trường với tấm bằng đỏ Nguyễn Trọng Phú hăng hái khoác ba lô
lên nhận công tác tại Công ty Apatit Việt Nam . Gặp lại Nguyễn Trong Phú, cứ
nghĩ người bạn chiến đấu năm xưa nay làm Giám đốc một nhà máy lớn, tiền hô, hậu
ủng thì cái tình, cái tính nó sẽ khác đi, song, không phải vậy, cái chất người
lính từ thời trận mạc trong anh không thay đổi. Giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ,
thẳng thắn, quyết đoán trong công việc, yêu văn chương, nghệ thuật. Đó là
Nguyễn Trọng Phú hôm nay và vẫn là Nguyễn Trọng Phú của ngày hôm qua với chất
lính hồn nhiên, lãng mạn, hài hước đã tạo lên sự đồng thuận, gắn bó, cùng tập
thể làm lên sự tỏa sáng nơi trận tuyến xanh này.
Nguyễn Trọng Phú say sưa kể cho những nhà văn nghe về
những ngày tháng gian truân vất vả của những người thợ ở đây. Vừa lúc nước ta
vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh được sự giúp đỡ của các nhà khoa học, các
chuyên gia Liên Xô, Viện công nghệ thiết kế mỏ Liên Xô đã thiết kế và cung cấp
thiết bị công nghệ tuyển cho chúng ta. Dự án thiết kế với công xuất 900 nghìn tấn/năm. Năm 1986 nhà máy chính thức
bắt tay vào thi công xây dựng. “Sau sông Đà là Tằng Loỏng” câu khẩu hiệu quen
thuộc với ngành xây dựng lúc ấy. Với sự vào cuộc của 22 xí nghiệp, đơn vị thi
công như; Bộ xây dựng, Bộ năng lượng, Tổng cục đường sắt, Bộ công nghiệp nặng….,
Ban quản lý công trình có 294 người, trong đó có 41 kỹ sư, đặc biệt là sự có
mặt giám sát của các chuyên gia Liên Xô. Các thiết bị máy móc của bạn giúp ta
đã vượt hàng vạn cây số trùng dương đến Tằng Loỏng. Cả Lào Cai sôi lên trong
không khí bừng bừng của đại công trường xây dựng. Trong lúc tiến độ công trình
đang thuận buồm xuôi gió thì đến năm 1990 - 1991 Liên Xô và các nước XHCN Đông
Âu tan rã. Các chuyên gia Liên Xô về nước, việc xây dựng nhà máy bị gián đoạn,
hàng loạt các khó khăn phát sinh. Viện trợ kỹ thuật bị cắt, công trình phải
đình lại chờ Nhà nước xem xét. Hàng ngàn công nhân mất việc làm, các vấn đề xã
hội nảy sinh phức tạp. Không chịu bó tay cam chịu, bằng những nỗ lực và tinh
thần sáng tạo các kỹ sư và công nhân mỏ Lào Cai đã phát huy nội lực vượt qua
mọi khó khăn. Ngày 26/9/1994 nhà máy được khánh thành và đi vào hoạt động giai
đoạn I. Việc đưa nhà máy đi vào hoạt động đã đánh dấu sự thắng lợi và tin tưởng
vào trình độ, bản lĩnh, tay nghề người thợ Việt Nam, tạo ra một bước đệm nối
tiếp cho sự phát triển những năm sau. Thật cảm động khi Giám đốc Nguyễn Trọng
Phú cho xem tấm ảnh và kể câu chuyện của Công trình sư Mivlalốp, người đã từng
gắn bó 10 năm chỉ huy xây dựng nhà máy. Khi trở lại thăm ông đã rất ngạc nhiên khi
thấy các người thợ trẻ Việt Nam vận
hành nhà máy một cách hiệu quả. Ông đã thốt lên đầy khâm phục “ Tôi không thể
tin các đồng chí có thể làm được như vậy...”.
Kỹ sư Nguyễn Thanh Hải, Phó phòng công nghệ điều độ dẫn
chúng tôi thăm nhà máy. Không khỏi ngỡ ngàng bởi rất nhiều các hạng mục thiết
bị, các hệ thống dây chuyền, các công trình phụ trợ dọc ngang, cái gì cũng lạ, cũng
muốn tìm hiểu. Anh Hải vui vẻ giới thiệu từng thông số kỹ thuật của toàn bộ hệ
thống dây chuyền tuyển. Đặc biệt hệ thống thiết bị đã được các bàn tay “ phủ
thủy” tài hoa người thợ ở đây cải tiến nhiều chi tiết mang tính ưu việt, điều
khiển tự động hóa nên giảm thiểu lao động trực tiếp. Hệ thống camera giám sát
kỹ thuật trong toàn hệ thống truyền hình ảnh về trung tâm điều hành. Các bể
chứa những trục xoắn khoắng lên sùng sục, những cánh quạt gạt tinh quặng sang
máng dẫn cứ đều đều mềm mại như tay con gái Thái múa xòe. Dòng quặng tinh sền
sệt sóng sánh ánh nâu chảy theo máng vào ống bơm, réo lên ùng ục... Tất cả hệ
thống dây chuyền tuyển của nhà máy nhộn nhịp, tạo ra những âm thanh râm ran như
một bản nhạc trầm hùng, hòa cùng với gió ngàn mênh mang tấu lên, giai điệu âm
hưởng của thời “công nghiệp hóa - hiện đại hóa”.
Nhà máy tuyển đang bước vào tuổi 20. Hai mươi năm đối
với một đời người có thể là dài nhưng đối với sự phát triển một nhà máy mang
tầm chiến lược quốc gia thì vẫn chỉ là những bước đi đĩnh đạc ban đầu. Có được
những bước đi đĩnh đạc đầy tự tin thật không đơn giản, đó là cả một thiên trường
gian khổ, luyện tập, thử thách gian nan. Đó không chỉ là mồ hôi công sức, mà
còn là máu và vô vàn nếm trải đắng cay. “ Vạn sự khởi đầu nan” gian nan trong
tiếp nhận chuyển giao công nghệ, gian nan trong điều hành quản lý, trong cả tầm
nhìn, cách nghĩ. Đến nay thế hệ lớp đầu đã và đang chuyển giao cho thế hệ tiếp
theo thay cha anh đảm trách công việc. Đó là sự chuyển giao một cách đầy trách nhiệm và có tính kế thừa ân nghĩa,
ngọt ngào. Năm 1994 sau khi nhà máy khánh thành đi vào hoạt động chỉ sản xuất
được 9 nghìn tấn/ năm. Đến năm 1999 theo kế hoạch của dự án nhà máy tiếp tục
triển khai giai đoạn hai nâng công suất để đáp ứng nhu cầu thị trường. Giai
đoạn này vô cùng khó khăn vì các thiết bị vẫn chưa được cải tiến là mấy, năng
suất thấp, tỷ lệ thu hồi thấp, điện năng tiêu thụ cao. “Vậy giải pháp gì để
thực hiện nhiệm vụ giao?”. Nguyễn Trọng Phú tưng tửng nói: “ bất phẫn thì bất phát” “cái khó đã ló cái
khôn” Trong tình thế đó tinh thần sáng tạo, đoàn kết đã được phát huy, một
loạt các đề tài cải tiến kỹ thuật được CBCNV nhà máy phát huy đưa vào áp dụng.
Năng xuất sản lượng đã tăng lên, năm 2002 đạt ngưỡng 300 ngàn và 2008 vượt lên
con số 600 ngàn tấn. Anh Phú nói “Qua thực tế vận hành chúng tôi đã tìm ra được
nhiều điểm yếu cần cải tiến. Hàng năm Hội đồng sáng kiến đã công nhận và đưa
vào thực hiện nhiều sáng kiến cải tiến, hợp lý hóa sản xuất được đưa vào áp
dụng đã làm lợi cho công ty” Tiếp đà thắng lợi. Năm 2009 quyết tâm của lãnh đạo
Công ty, tiến hành cải tạo nâng công suất giai đoạn ba đưa dây chuyền chạy hết
công suất thiết kế. Và đến hôm nay bước vào xuân 2013 không khí xuẫn vẫn đang tràn ngập, sản lượng nhà máy đạt hơn
900 nghìn tấn vượt 20% kế hoạch, tiêu thụ đạt hơn 900 nghìn tấn. Đây là năm đầu
tiên sản lượng đạt cao nhất chưa từng có trong hai mươi năm qua. Để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của các nhà máy phân bón trong nước và nhu cầu xuất khẩu. Công
ty đã mở rộng sản xuất đầu tư tiếp nhà máy tuyển Cam
Đường 125 nghìn tấn/năm và nhà máy tuyển Bắc Nhạc Sơn 350 nghìn tấn/năm. Nâng
tổng công xuất quặng tinh của Công ty lên 1.375 nghìn tấn, bước đầu đã đáp ứng
được nhu cầu sản xuất phân bón trong nước. Sự lớn mạnh của ngành tuyển khoáng
Lào Cai nó như cánh én báo hiệu một mùa xuân ấm áp, của việc công nghệ chế biến
sâu khoáng sản, hướng đến một nền công nghiệp khai thác, chế biến tài nguyên
manh tính bền vững. Quanh lại câu chuyện đề tài khoa học cấp Nhà nước phối hợp
giữa Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Công ty
Apatít mà Nguyễn Trọng Phú khoe thì hôm nay không còn là điều bí mật nữa. Công nghệ
tuyển quặng I2 đã đang chạy trên dây chuyền công nghiệp, đạt kết quả tốt, khẳng
định một hướng mở cho ngành tuyển Apatit Việt Nam .
Tôi cũng như các nhà văn dự trại viết, vui mừng nhìn
những đoàn tầu hối hả chuyển quặng như những con trăn khổng lồ trườn mình trên
thảm xanh mỡ màng hoa lá, dưới ánh nắng đầu hạ lung linh, nhảy múa trên vòm
xanh. Mỗi ngày hơn hai trăm toa xe lửa miệt mài cõng quặng từ khai trường về
nhà máy và rồi gần phần nửa số toa thành phẩm lại vươn xa, tỏa về các nhà máy phân
bón. Mỗi nhịp đoàn tầu đi nghe rộn rã tiếng còi, đem niềm vui về các miền quê
làm xanh non thêm bờ bãĩ.
Trong
mười năm trở lại đây Công ty luôn đạt mức tăng trưởng bình quân từ 17 đến 20%.
Chỉ cần điểm một vài số liệu cũng đủ thấy tâm thế của một đơn vị với danh hiệu
“Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới”. Lấy năm 2008 là năm có sản lương cao nhất
để so sánh, tổng sản lượng khai thác đạt 2,0 triệu tấn quặng, doanh thu đạt kỷ
lục là 1,750 tỷ đồng, trở thành doanh nghiệp đầu tiên của tỉnh Lào Cai vào topten
“ Câu lạc bộ ngàn tỷ”. Đến 2012 tổng sản lượng khai thác, tăng lên 2,5 triệu
tấn quặng, doanh thu lập kỷ lục 2,700 tỷ đồng, nộp ngân sách 293 tỷ, thu nhập
người lao động bình quân 10 triệu đồng / tháng. Phó tổng giám đốc Lê Xuân Thái,
khái quát đầy tự tin về chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh nào là xây
dựng chiến lược giai đoạn đến năm 2017- 2020, tầm nhìn 2030. Nào là ngoài hoạt động khai thác, chế
biến khoáng sản, sản xuất photspho vàng. Nào là phân bón và hoá chất các loại,
mở rộng sản xuất kinh doanh một số ngành nghề khác… Và hướng phát triển trong
giai đoạn tới xây dựng thành cụm Công nghiệp phân bón - Hóa chất trên địa bàn
tỉnh Lào Cai nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung, theo phương châm: khai thác -
chế biến - và chế biến sâu quặng apatit.
Tôi nghĩ, tài nguyên nào cũng có giá trị, có sắc có hương riêng của nó tạo đến
tính hoàn thiện. Song, quy luật có vay có trả, tài nguyên quặng Apatít là loại
quặng có nghĩa, có tình, sòng phẳng với cây, với đất. Sản sinh ra từ lòng đất
và trở về làm giầu đất. Một vòng quay tuần hoàn, hoán đổi đầy chất nhân văn.
Chỉ có điều con người biết ứng sử với thiên nhiên như thế nào, để có tình có
nghĩa. Mọi sự thành bại đều bất đầu từ, cái tâm, cái
tầm, bản lĩnh người cầm lái. Phải biết dung hòa lợi ích, biết mình, biết người,
biết hướng đến nghiệp chung, cao cả, trọn vẹn, trước sau, thì mọi sự mới trở
nên hài hòa và bền vững.
Đi giữa không gian tươi xanh của thành
phố Lào Cai đang mùa phượng đỏ, ngắm bức tượng đài công nhân mỏ sừng sững uy
nghiêm, nơi tôn vinh các thế hệ công nhân Apatits Việt Nam, tôi bỗng thấy bồi
hồi xúc động khi nhìn tấm ảnh Cụ Hồ lên thăm công nhân mỏ cách đây vừa tròn 55
năm. Chính Người một vĩ nhân, tấm lòng bao dung, yêu giống, thương nòi, quan
tâm tới giai cấp công nhân, người lao động. Và chính Người đã và chỉ ra cho
những công nhân nơi đây cách gìn giữ, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên quí
giá phục vụ cho công cuộc xây dựng nước nhà giầu mạnh. Lời Người còn mãi khắc
ghi trong tâm khảm các thế hệ công nhân mỏ, để hojtieeps tục phát huy truyền thống cha anh, lập lên nhiều
kỳ tích mới.
C.T
Trại
viết Tạp chí VNQĐ, Sa Pa – 5/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét