Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Ký sự dưới nóc nhà Đông Dương

Trên đèo Khau Co
                                                                            
Ký sự của Công Thế
          Trong những lần đi điền dã, tôi thấy thú vị nhất vẫn là chuyến đi vòng quanh nóc nhà Đông Dương, chuyến đi này tôi khám phá và hiểu biết nhiều điều hơn tôi tưởng. Các vùng đất, cuộc sống, các bản làng và phong tục tập quán của các tộc người cùng cảnh sắc thiên nhiên dưới chân nóc nhà mang nhiều huyền thoại này còn bao điều mới lạ, kỳ thú. Như cho tôi đi ngược về cội nguồn văn hoá bản địa, ở đó tất cả là một bảo tàng sống thuộc nhều lĩnh vực khác nhau tuỳ theo sở thích phám phá của mỗi người. Tất cả cứ hiển hiện lên hồn nhiên, trong veo như mây ngàn gió núi, như cỏ cây hoa lá …
                                         Những kỳ thú…





         Đèo Khau Co là một trong những thắng cảnh mà trên cung  đường tôi đi qua. Con đèo nằm ở phía nam của hùng sơn PanXiPang, tuyến đường chiến lược huyết mạch quốc lộ 279, đoạn nối liền huyện Than Uyên của Tỉnh Lai Châu và Huyện Văn Bàn Tỉnh Lào Cai. Những gì mắt thấy tai nghe, những điều chiêm nghiệm về con người và cảnh sắc Khau Co làm tôi ấn tượng khó quên.   
Nhiều người biết đến đèo Khau Co trên thực tế hoặc qua báo chí, qua những câu chuyện kể. Nói về Khau Co là nghĩ đến sự hiểm nguy, đường quanh co hiểm trở, vực sâu dốc cao, với mây mù bao phủ quanh năm. “Khau Co, Khau Phạ, Khau Riềng/ Trong ba khau đó thì kiềng Khau Co”. Câu ca đó đã có từ lâu, kể tên ba con đèo quanh co hiểm trở của Tây Bắc và cũng ngầm ý nhắc nhở ta đèo Khau Co vẫn là hiểm trở nhất. Nhắc đến Khau Co người ta nghĩ ngay đến mảnh đất thừa gió, thiếu nắng. Gió ở đây thật khủng khiếp, gió rít ngày rít đêm, gío làm nghiêng ngả, bẻ cành vặt lá, gió làm chốc gốc, bốc rễ cây cối, nhất là mùa gió Lào, gió làm te tướp, xướp xơ cỏ cây, gió đúng với tên gọi của con đèo. Khau Co theo hệ ngữ Tày, Thái nghĩa là “ Đèo Gió”. Sự vắng vẻ, quạnh hưu của rừng nguyên sinh rậm rạp, của lam sơn chướng khí. Sự đỏng đảnh bất thường của thời tiết nơi đây và cả những nỗi lo sợ bất chắc dọc đường, đã làm lên một Khau Co nhiều huyền bí.
Trên đỉnh Khau Co đến nay vẫn còn những dấu tích nơi đồn trú của chủ nghĩa thực dân Pháp. Chúng chiếm Khau Co xây đồn cho quân án ngữ vì thấy đây là vị trí lợi hại quan trọng về mặt quân sự, hòng chặn đường tiếp tế, liên lạc của ta với Than Uyên và vùng Tây Bắc với chiến trường Điện Biên Phủ. Chúng còn ý đồ lấy nơi đây làm bàn đạp đánh chiếm Văn Bàn và các huyện phía đông tỉnh. Nhưng chúng chưa thể thực hiện được ý đồ đó thì đã bị quân và dân Huyện Văn Bàn xóa sổ trước. Theo tài liệu lịch sử đảng bộ Văn Bàn chép: Ngày 27/10/1946 quân ta chiếm đánh đồn Khau Co, chỉ huy trận đánh là đồng chí Vạn Lịch và Nguyễn Đình Tấn, do ông Sầm Văn Khèo người xã Minh Lương dẫn đường. Quân ta chia làm 3 hướng luồn rừng bí mật áp sát tiến công đồn địch, bất ngờ bị ta đánh úp chúng không kịp trở tay đối phó, Một trung đội Âu Phi và một số lính dõng cầm cự không nổi đã nhanh chóng tan dã, một số tên chết, một số bị ta bắt làm tù binh, ta thu toàn bộ trang bị, vũ khí, đạn dược, trong đó có 17 khẩu súng trường, 4 tiểu liên, 3 trung liên, 2 Moóc-chi-ê, 1 đại liên.
Trận đánh này là tiếng súng đầu tiên mở màn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của tỉnh Yên bái lúc bấy giờ, trước ngày có lệnh toàn quốc kháng chiến 19/12/1946. Chiến thắng Khau Co còn in đậm mãi trong tâm trí người dân nơi đây, trong lịch sử giải phóng dân tộc chống giặc ngoại xâm của quân và dân Huyện Văn Bàn. Khau Co (Đèo Gió) ngày nay không còn heo hút, đã bớt nguy hiểm, đường đã được rộng mở, đỉnh đèo vẫn hùng vĩ và sừng sững với mây ngàn, gió núi, Quốc lộ 279 đã được nhựa hoá vắt qua đỉnh Khau Co, trông như một tấm thảm nhung chào mời du khách. Nỗi lo lắng, sợ hãi qua đèo bây giờ không còn nữa, mà Khau Co đã trở thành điểm thu hút khách thập phương qua lại và dừng nghỉ ngắm cảnh sắc hữu tình nơi đây.
           Song đến Khau Co để có dịp được chiêm ngưỡng những khoảng khắc đẹp kỳ thú trên đỉnh mù sương lộng gió này thì không phải ai cũng biết và cũng không phải lúc nào cũng may mắn gặp. Nếu ai đó chỉ cần một lần được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đến sững sờ khi hoàng hôn xuống cũng đủ để nhớ mãi, sẽ là những kỷ niệm khó phai. Để chiêm ngưỡng những khoảnh khắc đó khi ta đứng từ đỉnh đèo nơi “ Cửa Gió” trên độ cao 1300m so với mực nước biển nhìn về phía tây vào những ngày đẹp trời. Sau một trận mưa rào, trời trong xanh, mặt đất ẩm ướt, hơi ẩm bốc lên ngùn ngụt, thời điểm ấy thường xuất hiện vào lúc giao mùa giữa hạ sang thu. Khi màn mây mù đã mỏi mệt, quên rong chơi chúng rủ nhau xúm đặc lại chìm thấp xuống, bay là là, luồn lỏi vào các lũng sâu, (người ta gọi là mây luồn), rồi bò tràn xuống các nấc ruộng bậc thang đang mùa trĩu hạt vàng óng. Lúc mặt trời đỏ mọng như chảo lửa từ từ chui xuống biển mây trắng bồng mềnh, khuất lấp xuống cánh đồng Mường Than xa tắp, dáng đỏ của mặt trời hắt khúc xạ lên biển mây thành màu ngũ sắc, bắc những cầu vồng đan lồng vào nhau. Các vầng mây ngũ sắc đó lúc cuộn lên, lúc nhào xuống, khi tản ra, lúc xụm lai, khi đứng khi ngồi, tạo ra muôn hình vạn trạng, vẽ lên những cảnh sắc đẹp đến mê hồn. Mây bay bồng bềnh dưới chân đưa cảm giác con người như chao nghiêng theo làn mây, tựa như đang sống chốn bồng lai tiên cảnh. Những khoảnh khắc đó đã làm mê hoặc biết bao lữ khách. Chẳng vậy mà dân “Phượt” đã xếp Khau Co là điểm đến trên cung đường những con đèo “ Khủng” của Tây Bắc khó bỏ qua.


Khau Co là vùng lõi của rừng đặc dụng trong khu bảo tồn đa dạng sinh học vườn Quốc gia Hoàng Liên đã được công nhận là vườn di sản thiên nhiên ASEAN. Vườn Quốc gia Hoàng Liên được đánh giá là một trong những trung tâm đa dạng sinh học vào bậc nhất ở nước ta. Tôi đã có bài viết “Những báu vật trong rừng Hoàng Liên” nên không bàn sâu về tiềm năng rừng trong bài nay. Trong chuyến đi lần này tôi lại phát hiện thêm một điều thú vị nữa, đó là một tiềm năng mà trời đã phú cho Khau Co là khí hậu mát lành mà nay con người ở đây đã và đang biến cái của trời cho, phát huy  ứng dụng khoa học để phát triển nghề nuôi cá nước lạnh rất hiệu quả (cá hồi vân). Trại nuôi cá hồi vân trên đỉnh Khau Co lại do chính những người gác rừng đặc dụng Hoàng Liên phát triển. Cái hay là những người làm công tác bảo tồn rừng đã biết biến cái giá trị bảo tồn phát triển lên thành giá trị kinh tế củng cố tính bảo tồn càng bền vững. Chủ dự án do anh Phạm Đăng Hải trạm trưởng trạm kiểm lâm đèo Khau Co chủ trì. Anh Hải tâm sự: Suốt 32 năm gắn bó với nghề gác rừng thường xuyên phải ở những nơi heo hút khó khăn nhưng cái nghiệp đã vận vào đời, ở rừng mãi nên yêu rừng nếu xa là nhớ, trống trải lắm! Nhiệm vụ chính của các anh là tuần tra canh gác, tuyên truyền nhân dân về công tác bảo vệ rừng, trạm kiểm lâm của anh gồm có 4 người được giao nhiệm vụ quản lý 22 nghìn hec ta, trong đó có 12 nghìn hec ta là rừng đặc dụng trong khu bảo tồn ASEAN. Địa bàn rộng, lực lượng mỏng nên công việc của các anh không những vất vả mà còn hiểm nguy, nhiều khi phải đối mặt, tuyên chiến với những kẻ “đầu trâu mặt ngựa” ngày đêm rình mò “moi gan, rút ruột” rừng. Trong những năm gần đây nhờ được các chính sách, sự giúp đỡ của các cấp các ngành địa phương tuyên truyền, sự nhận thức của người dân được nâng cao nên rừng đã có phần lắng dịu yên hàn hơn trước.
Sau những ngày đi tuần rừng về, những thời gian rảnh rỗi, nhìn dòng suối trước trạm chắt những dòng nước mát lạnh từ lòng núi quanh năm chảy róc rách. Rồi anh chợt nhớ lần sang Sa Pa công tác và được anh bạn chiêu đãi cá hồi. Vậy là anh lao vào tìm hiểu và tính toán. Cũng phải mất một thời gian trăn trở, tính toán, nghiên cứu và nhận thấy điều kiện  khí hậu ở đây phù hợp với việc nuôi cá hồi, đặc biệt nguồn nước rất đảm bảo như độ lạnh, nồng độ ô xy hoa tan và nguồn nước luôn ổn định không ô nhiễm. Rồi anh đi tham quan học hỏi kinh nghiệm các cơ sở nuôi cá hồi ở Sa Pa , Lai Châu bên đèo Hoàng Liên. Được sự giúp đỡ của trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ, trung tâm phát triển thuỷ sản Lào Cai. Anh Hải mạnh dạn đầu tư tiến hành làm hồ nuôi thử nghiệm, qua lứa cá nuôi thử thấy kết quả tốt, anh đã lên kế hoạch xây dựng dự án được trung tâm khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ Lào Cai ủng hộ và đưa dự án của anh vào chương trình. Tổng chi phí dự án lên đến 622 triệu đồng trong đó được sự hỗ trợ của chương trình 60 triệu đồng sau hơn một năm thực hiện đã thu được kết quả đáng khích lệ đến năm 2010 anh đã thu hơn 3000 kg cá thịt. Anh tiếp tục thả, nuôi đợt 3, đợt 4 cho đến nay quí 1/2011 tổng sản lượng cá thịt anh thu đã trên 5300 kg tổng doanh thu lên đến gần 1,7 tỷ đồng. Theo anh Hải cho biết  khu trại nuôi cá của anh hiện đã được các cấp có thẩm quyền cho phép mở rộng diện tích nuôi thả, hiện dự án đã thành lập  thành Công ty Sơn Hải đã được duyệt cấp đăng ký. Vậy là cái nghiệp đã gắn với anh thật. Anh sẽ gắn bó với rừng và quyết trí không chỉ làm giầu ngay trên đỉnh đèo heo hút gió này mà còn  vì một nghĩa nữa là yêu mến, ân nghĩa với  rừng.
          Nhìn hồ cá tung tăng bơi lội, mỗi hồ, mỗi lứa cá khác nhau đều tăm tắp, loại đã đến kỳ xuất bán loại đang nuôi trưởng thành, vỗ béo, có loại nhỏ bằng ngón tay là cá giống mới chuyển về tất cả cứ nhao nhao, chao lượn theo dòng nước xoáy trông đến vui mắt. Đang dẫn chúng tôi tham quan hồ cá, thấy mấy chiếc xe con dừng dưới đường anh Hải nói: Các bác thông cảm em xuống đón khách, tí nữa anh em mình vừa lai rai vừa chuyện tiếp. Nhìn những du khách trong cái bắt tay thân mật, rồn rã, biết là khách quen. Ngước lên sườn đồi trong mấy cái lán, sàn nứa lợp cọ trông rất dân dã, đã thấy mấy mâm khách đang thưởng thức món đặc sản lẩu cá hồi. Nhìn lướt qua xe và các gương mặt thấy láng mượt đoán chắc là các đại gia bên Lai Châu sang hoặc các ông chủ của mấy công trình thủy điện…
 Các món sơn hào ở đây qua bàn tay của các đầu bếp nơi đèo gió phục vụ trông rất hấp dẫn và chắc chắn là “ Thóc thật”. Trong màn sương mờ ảo, hơi lạnh bò sau lưng nhồn nhột, không gian thật là lãng mạn, trong lời thì thầm của gió, trong tiếng rủ rỉ của rừng đại ngàn, thi thoảng tiếng tắc kè điểm nhịp trong hang đá vọng lại, dòng suối trong xanh róc rách reo vui và tiếng chim hoạ mi lảnh lót. Ngồi trên đỉnh Khau Co làm “Thượng Đế” uống rượu với lẩu cá hồi như thế thì quả là một điều kỳ thú trên đỉnh Khau Co.
                                                C.T
 “ Kỳ sau: Những câu chuyện kỳ bí…”  

Bút ký

BẢN TRẺ
Bút ký của: Nguyễn Xuân Mẫn

Mỗi thôn bản ra đời thường kèm theo từ MỚI vào thôn bản ấy. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Lào Cai gọi bản mới là Sín Chải còn người Kinh lên khai hoang đặt tên bản là Tân Hào, Tân Sơn... Gần đây, ở xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát hình thành một bản mới đã có 50 mái nhà với đầy đủ ý nghĩa trong công việc, tuổi đời và phong cách của cư dân đều mới và trẻ khoẻ. Đó là Làng Thanh Niên lập nghiệp.

Ở nông thôn miền núi, đánh vật với ruộng, rừng, nương bãi nhưng không ít đôi vợ chồng trẻ khi ra ở riêng, vốn liếng của nả có là bao. Nhiều gia đình cố gắng thì bố mẹ cũng chỉ chia cho một vài sào ruộng, một con trâu và hai gian nhà tạm. Ra ở riêng, gà chưa kịp gáy lần thứ ba gọi mặt trời, vợ chồng trẻ đã lục tục khua nhau dậy, vội vàng nấu nướng, ăn uống, cho lợn gà ăn, hối hả đưa con đi học rồi tất tả đóng cửa đi làm. Hay làm, giỏi nghĩ, chịu bòn nhặt cũng phải dăm ba năm sau mới không phải thắp hương thờ con ma nghèo ngồi chắn cửa. Đâu chỉ là nỗi trăn trở của các ông bố bà mẹ mà còn là nỗi lo toan của hệ thống Đoàn thanh niên nên nhiều năm nay tuổi trẻ cả nước dấy lên phong trào “Thanh niên lập nghiệp”.
Chị Hà Thị Nga, bí thư tỉnh đoàn Lào Cai lên làm dâu trên miền đất biên cương này. Mười lăm năm gắn bó với Lào Cai, chị thấy thân thiết như Piềng Vế, huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình quê mình. Nơi nào xa xôi khó khăn nhất đều có bàn chân của người phụ nữ dân tộc Thái ấy. Năm năm trước trở lại công tác đoàn, việc đầu tiên chị nghĩ đến là muốn phong trào “Thanh niên lập nghiệp” có hiệu quả, Đoàn phải có nội dung hoạt động rõ ràng hơn ở vùng cao. Tâm tư của chị được ban thường vụ rồi ban chấp hành tỉnh Đoàn ủng hộ và trở thành nghị quyết của tỉnh Đoàn là xây dựng “Làng thanh niên lập nghiệp”. Hai hiệu quả lớn được đặt ra trong dự án là: Kinh tế và nếp sống công nghiệp. Chỉ có mấy từ ấy nhưng chị Nga và các cán bộ tỉnh đoàn phải lặn lội khắp các huyện để tìm chọn địa điểm. Việc đầu tiên là phải có diện tích rộng trên dưới một nghìn héc ta để có đất cho các bạn vào bản trẻ sản xuất. Tiếp đến là nơi ở phải tương đối quần tụ vừa bảo đảm cho sản xuất lẫn sinh hoạt hàng ngày. Đi đến đâu tìm cũng thấy đất lúa, đất ngô và đất rừng đều có chủ hoặc không canh tác được. Mấy năm liền xây dựng với nhiều lần được sửa chữa điều chỉnh và báo cáo lên tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, lên Trung ương đoàn thẩm định. Cuối cùng dự án Làng thanh niên lập nghiệp Trịnh Tường  với quy mô 100 hộ được phê duyệt và cấp kinh phí thành lập.
 Xã Trịnh Tường có hơn 5.500 nhân khẩu thuộc 5 dân tộc Mông, Giáy, Dao, Kinh và Hà Nhì. Xã có 21 thôn bản như: Tùng Chỉn, Bản San, Phìn Ngan, Phố Chợ… Không phải mỗi địa danh ấy chỉ dành cho một bản mà có tới hai hay ba bản cùng tên gọi vì mỗi năm cũng có chừng vài chục cặp vợ chồng trẻ ra ở riêng. Chính quyền từ xã xuống đến các thôn bản và những ông bố bà mẹ có con muốn ra ở riêng đang loay hoay thì gặp ngay những bàn chân của các cán bộ tỉnh đoàn Lào Cai đi tìm đất lập làng. Nào ngờ hai cái bí gặp nhau lại hợp thành một thế đi thuận lợi để hình thành làng thanh niên, ngôi làng thứ 22 của Trịnh Tường. Không hiểu tình cờ hay mọi người chủ định mà vùng đất Trịnh Tường hôm nay gặp cơ may để rừng núi có nhiều tiền như ước nguyện của cha ông khi đặt tên vùng quê mình là Sền Siềng có nghĩa là tiền dài, tiền lớn.
Ngày 26 tháng 3 năm nay giữa tiết xuân phân, đúng vào ngày kỷ niệm thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; cả Trịnh Tường rực rỡ cờ hoa khởi công xây dựng làng thanh niên lập nghiệp. Trụ sở của làng trẻ được nằm trên sườn núi nhìn về hướng tây nam. Làng thanh niên được chia thành ba xóm nhỏ, một ở ngay trụ sở nằm trên đất Vĩ Lầu, một ở Bản Tàng cách đó gần hai cây số và một xóm nữa ở thôn Tấn Tiến ngoài bãi sông xa bốn cây số.
Hơn 1.000 héc ta gồm cả đất canh tác nông nghiệp và rừng sản xuất.của làng thanh niên rải ra nằm trong gần 8.000 héc ta xã Trịnh Tường. Trước ngày thành lập làng, không ít thanh niên ngần ngại về nhiều lẽ. Việc đầy tiên vẫn là làm ăn trong làng trẻ có thể giàu lên được hay không vì chuyện việc làm đều nằm trong kế hoạch chặt chẽ của ban quản lý làng? Mọi hoạt động và sinh hoạt trong khuôn khổ tác phong công nhân chặt chẽ như quân đội thì những thời gian cần cho việc cưới xin, ma chay, thăm hỏi…  trong họ ngoài bản cũ sẽ bố trí ra sao? Họp thôn bản nghe phổ biến, nhiều người càng thấy rất ngại bởi tiêu chuẩn vào làng thanh niên rất chặt chẽ. Phải có gia đình và dưới ba mươi lăm tuổi, chỉ có không quá hai con, phải có văn hoá phổ cập trung học cơ sở… Chí trẻ giúp lớp trẻ Trịnh Tường vượt xa khỏi tầm suy nghĩ quẩn quanh xưa nay của cha ông. Mấy anh người Mông Bản Tàng, xuống xã hỏi cách làm đơn vào làng thanh niên. Ở Bản Mạc, phố chợ và cả thôn Tân Tiến; các chàng trai cũng ướm sức mình rồi gặp trưởng thôn hỏi kỹ tiêu chuẩn đi làm công nhân làng thanh niên. Một cuộc trao đổi nương bãi diễn ra giữa các gia đình trong xã để vừa thuận tiện cho đất sản xuất vừa bố trí thổ cư quây quần một khu vực. Tuy vào làng thanh niên nhưng người Mông Bản Tàng vẫn ở quây quần gần bản cũ. Thanh niên Dao, Hà Nhì và Kinh thôn Tân Tiến vẫn sinh sống ngay trên vùng hồ Bản Mạc xưa kia để làm nương làm bãi.  Trong dự án, làng được cấp 500 triệu đồng mua một xe ô tô vừa để vận chuyển vừa phục vụ công tác nhưng suy nghĩ của lớp trẻ bao giờ cũng đầy sức sáng tạo. Số tiền ấy được lăng xê sang chiếc máy xúc KOMASU. Máy về làng đã khoe sức trẻ của mình khi san nền nhà ở cho công nhân. Với công suất một giờ san đào được 80 mét khối, chàng lực sĩ Nhật ấy tiếp tục trổ tài tham gia mở đường băng hơn 85 héc ta cao su, mở đường ô tô cho làng trẻ và cho xã. Còn vô khối công việc mở nương bậc thang trồng chè, trồng cây ăn quả, rừng sản xuất cho bản trẻ đang chờ chiếc gầu xúc khoẻ như một trăm con ngựa ấy.
Những ngôi nhà mới xây mọc lên mỗi nơi mỗi kiểu dáng khác nhau. Hai chục gia đình trẻ người Mông Bản Tàng vốn nằm trong diện hộ nghèo nên với 30 triệu đồng nhà nước hỗ trợ và công sức của vợ chồng, nhờ họ hàng giúp đỡ cũng có được ngôi nhà ba gian xây cấp bốn rộng 50 mét vuông có buồng, có hai gian ngoài rộng rãi. Hôm vợ chồng anh con trai dọn xuống nhà mới ở bản trẻ, ông Sùng A Sài ôm chặt lấy anh Bùi Quốc Phi, phó ban quản lý dự án làng thanh niên mà dân dấn nước mắt: “Vợ chồng mình nghèo nhiều lại đẻ đông tới năm đứa con, nếu không có   đoàn thanh niên giúp đỡ, chẳng bao giờ thằng Sùng A Ca nhà mình mới có cái nhà bằng gạch này”. Cánh thanh niên người Giáy ky cóp vốn liếng, vay mượn anh em, dồn thêm tiền làm ngôi nhà to hơn nhà của bố mẹ trong bản cũ. Ngay cổng vào trụ sở làng là ngôi nhà bề thế của Lý Văn Tỉn, người Bản Mạc tính sơ sơ tới 145 triệu đồng vì có đủ phòng khách, phòng ở, bếp, chuồng lợn, chuồng gà và đầy đủ mọi tiện nghi trong công trình vệ sinh như nhà ngoài phố tỉnh. Lớp trẻ học được nhiều điều hay cái mới nhưng vẫn giữ nguyên truyền thống của cha ông. Nhà thanh niên Giáy hay Mông vẫn đóng trên cửa ra vào mảnh vải đỏ cầu may và dán đôi câu đối đỏ bên bàn thờ. Dù xây nhà ống nhưng nhà các thanh niên  Giáy, cửa ra vào vẫn nằm giữa nhà để bàn thờ ma ông ma bà được nhìn thẳng ra phía trước. Nhiều căn buồng nhà thanh niên người Mông không để cửa sổ vì lý của ông bà dặn nơi dành cho phụ nữ cần kín đáo.     
Vào làng thanh niên nhưng ngày ngày vợ vẫn cấy lúa ruộng nhà, trồng ngô sắn nương nhà, vẫn nuôi lợn gà. Ngoài bãi sông Tân Tiến vẫn trồng chuối, ớt, cà chua trong chương trình liên kết của xã với các doanh nghiệp. Hàng ngày chồng cùng công nhân làng lên đồi trồng cây lâm nghiệp, đào hố trồng cao su. Mọi phần việc đều giao khoán cụ thể tới từng nhóm và người công nhân. Khi công việc của làng  cần là cả hai vợ chồng cùng đi làm. Sống với cây với đất nên công nhẹ việc nặng đều có tất từ phát cỏ, san nương, đào hố, đóng bầu đất ươm cây…Sức trẻ với tính cần cù chịu khó nên họ dễ dàng đạt và vượt chỉ tiêu mỗi tháng hai mươi sáu ngày công, để lĩnh mỗi tháng 1,9 triệu đồng. Số tiền ấy nếu ở bản cũ thì làm ăn tối mặt ngoài ruộng trên nương cả hai vợ chồng cũng không có nổi.
Vào làng thanh niên nên nếp sống thay đổi khác ngày còn trong bản cũ. Dù vẫn người trong xã trong bản cũ nhưng mọi sinh hoạt đã thành nếp mới tiến bộ và rõ ràng. Những buổi họp làng, họp tổ không phải chờ đợi quá lâu, không có khuôn mặt rượu phừng phừng. Mọi chuyện bàn bạc cũng dứt khoát rõ ràng xoáy sâu vào năng suất lao động, vào thời vụ trồng trọt, không e ngại cầm chừng như trước. Ai làm đúng biểu dương và học tập làm theo, ai còn thiếu sót góp ý chân tình thẳng thắn. Tác phong công nghiệp đã hình thành ở mỗi việc làm và cả khi họp hành nói với nhau bằng tiếng trong dân tộc. Những đứa trẻ con của làng đi học đều hơn và tiến bộ hơn và không rụt rè như trước. Chúng luôn tự hào với bạn bè bản cũ vì được làm cư dân tý hon của làng trẻ. Đêm tết trung thu năm nay, gần một trăm cháu con công nhân và hơn một trăm cháu mấy bản xung quanh về vui chơi ở sân trụ sở làng thanh niên. Vẫn là những đứa trẻ người Mông, người Giáy, người Hà Nhì nhưng từ cách đi đứng, chào hỏi nhanh nhẹn bạo dạn hơn trước. Cháu Sùng A Chống người Mông, con trai anh Sùng A Khoa khoe với các bác các cô cán bộ ngoài tỉnh vào: "Từ ngày bố làm công nhân làng thanh niên cháu vui lắm lắm nên học được nhiều hơn. Lớp bẩy của cháu có tới sáu bảy bạn cũng con làng này, vẫn bảo nhau phải học giỏi để thành công nhân con đấy!
Giữa màu xanh trên nương ngô và màu lúa chín vàng dưới ruộng, hai mươi ngôi nhà xây cấp bốn ở xóm Bản Tàng của  làng thanh niên lập nghiệp xếp một hàng ngang ngay ngắn như đội hình hành quân vào trận tuyến mới. Bản trẻ - Làng thanh niên lập nghiệp Trịnh Tường là đứa con đầu lòng của thanh niên tỉnh Lào Cai sẽ làm giàu bằng sức trẻ của mình để miền biên giới vùng đông bắc Bát Xát lấp lánh tiền vàng tiền bạc.
2.159 từ

Thơ...

 Công Thế
      Bài này mình có trong chuyến đi Lai Châu cùng Nhà văn họ Đoàn hồi tháng 4/2011 cùng bài ký đợt ấy.
                                                             
                                                               trời hoe hoe nắng lại mưa
                                                              Gió vu vơ thổi mây giăng mịt mùng
                                                               tôi lơ ngơ đến lạ lùng
                                                               Trước những trập trùng thiên tạo
                                                               vẹn nguyên văn hoá địa tầng
                                                               Lơ mơ
                                                               Say .. say eo thon vòng xoè
                                                                Đung điêng đùi non sơn nữ
                                                                Ngập ngừng gõ cửa Lai Châu




Bài đăng phổ biến