Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT CỦA ĐOÀN HỮU NAM

Cùng nhà văn "thổ phỉ" (phải ảnh) trên hồ Đại Lải
Cao Thị Hảo – Ngô Quốc Tuấn
Văn học viết về dân tộc và miền núi là khu vực có sự hiện diện khá đông đủ bộ mặt văn học các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Với khả năng khơi sâu vào cái riêng, mỗi vùng miền, văn học dân tộc miền núi đã đem lại sự cái đặc sắc của mỗi dân tộc, phong phú, đa dạng và có
một vị trí nhất định trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Trong văn học đương đại có khá nhiều nhà văn tiêu biểu viết về đề tài miền núi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc như: Ma Văn Kháng, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thuý… Đoàn Hữu Nam là một cái tên khá mới.
Ông có duyên với văn chương bắt đầu từ thơ, truyện ngắn, nhưng thành công hơn cả là tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam phản ánh khá phong phú hiện thực miền núi những năm sục sôi cách mạng giành chính quyền và tiễu phỉ với nhiều biến cố lịch sử gắn liền với đời sống của cộng đồng các dân tộc: Hmông, Dao, Giáy… ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, đặc biệt là Lào Cai - mảnh đất đã gắn bó máu thịt trong quá trình sáng tác của ông. Chúng ta có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Hữu Nam như: Tình rừng, Trên đỉnh đèo giông bão và nổi tiếng hơn cả là Thổ phỉ. Tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn họ Đoàn đã được giải A của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 2010) và được chuyển thể thành kịch bản phim công chiếu rộng rãi.
Trong các tiểu thuyết của mình, Đoàn Hữu Nam mô tả khá phong phú những phong tục tập quán của người miền núi, đưa những truyền thuyết dân gian vào tác phẩm để tô đậm thêm màu sắc dân tộc. Đặc biệt yếu tố kì ảo được sử dụng rất thành công trong tác phẩm, góp phần quan trọng thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam, nhiều tác giả cũng đã chú ý tới yếu tố kì ảo, lạ hoá này. Sương Nguyệt Minh đã chỉ ra bối cảnh không gian “rừng rú” kì lạ trong tiểu thuyết Thổ phỉ: “vừa âm u, hoang dã, cũ kĩ, mòn mỏi, vừa lung linh, sáng rõ, đẹp huyễn hoặc…”[1,tr.15]. Đó là không gian ma mị đặc thù phù hợp với thế giới của thổ phỉ. Có tác giả còn khẳng định: “những yếu tố lạ hoá và kì ảo được vận dụng trong Thổ phỉ tỏ ra rất thích hợp để diễn tả một không gian miền núi huyền bí từ xa xưa vốn được xem là “ma thiêng nước độc”[2]. Nhận xét về tiểu thuyết Trên đỉnh đèo giông bão, Phạm Duy Nghĩa cũng cho rằng: “Lạ hoá được Đoàn Hữu Nam sử dụng một cách có ý thức, không phải trực giác, ngẫu nhiên”, “trong thế giới nghệ thuật của anh cái gì cũng lạ: thiên nhiên tạo vật lạ… Hiện tượng sinh nở lạ… Bệnh tật lạ…”[3]. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những ý kiến nhận xét bước đầu, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và lí giải cụ thể về vấn đề này.
Yếu tố kì ảo (fantasticque) (một số tác giả còn gọi là “lạ hoá”) xuất hiện trong sáng tác văn chương như là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo, có tác dụng lớn trong việc kiến tạo thế giới hình tượng của tác phẩm. Nó giúp nhà văn khai thác những tầng vỉa khác nhau của hiện thực cuộc sống hay có thể phóng ngòi bút của mình vào những địa hạt có những thời kì bị xem là “nhạy cảm” như tôn giáo, tính dục...  nhằm tạo ra sức hấp dẫn, mê hoặc đối với độc giả. Trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam, yếu tố kì ảo được sử dụng khá phổ biến trong miêu tả nhân vật, miêu tả thiên nhiên, thế giới tâm linh.
Khi xây dựng nhân vật phản diện, nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả sự ra đời rất kì lạ của nhân vật. Sự có mặt của mỗi nhân vật trên cõi đời này dường như đã dự báo trước về cá tính và số phận của họ. Đó là các nhân vật: Chẩu Po, Triệu Tá Sắn trong Thổ phỉ hay Lù Tà trong tiểu thuyếtTrên đỉnh đèo giông bão
Không giống như bao sinh linh khác đủ chín tháng mười ngày thì chào đời, Chẩu Po (Thổ phỉ) đã gan lì đợi đến lúc năm mới năm cũ giao nhau – khi mà những người thân đứng ngồi không yên - mới chui ra từ bụng mẹ. Những đứa trẻ sơ sinh khác thì oe oe khóc khi chào đời, ngược lại Chẩu Po vừa ra đời đã toét miệng cười, “nụ cười khinh mạn của đứa trẻ sinh ra một cách không bình thường, trong ngày giờ không bình thường”[4]. Sự ra đời khác thường như vậy đã khiến cho Chẩu Po khác hẳn với những đứa trẻ khác. Hắn có cái nanh nọc lõi đời của một con thú tinh khôn.
Sự ra đời của Triệu Tá Sắn (Thổ phỉ) cũng thật kì dị: “Ngày Sắn sắp chào đời thì mẹ Sắn vô tình chui qua rừng ma. Hàng trăm con ma đói khát vây quanh đùa bỡn, một tốp thợ săn phát hiện ra đưa về nhà châu đoàn thì bà đang ngấp nghé ở cửa ngục”[4, tr29]. Để thoát khỏi địa ngục của ma quỷ, người mẹ ấy đã gắng gỏi với chút sức tàn cuối cùng của mình lê thân đến vương quốc của hổ để gửi gắm lại đứa con cho đời. Sắn đã được sinh ra “trong vương quốc của hổ, được hổ cứu sống cho bú mớm nên pha trộn dòng máu của nó là dòng máu hổ”[4,tr29]. Và chính dòng máu hổ đó đã khiến cho hắn mang bản năng của loài mãnh thú, không chỉ quần hôn với sáu người đàn bà như “đàn hổ trong mùa giao phối” mà hắn còn “luôn thèm thịt sống, nhất là loài ăn thịt hai chân biết nói, biết nghĩ” [4,tr30].
Yếu tố kì ảo có sức ám ảnh sâu đậm nhất trong người đọc phải kể đến hiện tượng đầu thai của Lù Tà (Trên đỉnh đèo giông bão). Sự ra đời của Lù Tà như một minh chứng của luật nhân quả. “Nó ở lỳ trong bụng mẹ chín, mười rồi ngoài mười tháng” và “đúng lúc lưỡi tầm sét loằng ngoằng, sáng chói bập xuống cây chò chỉ đứng đầu bản thì mẹ nó giật mình và bật ra nó”. Vừa ra đời, nó đã thấy thế giới này hết sức quen thuộc. Rồi vừa biết nói nó đã “bi bô kể cho mọi người chuyện người đẻ ra nó là ai ! Nhà nó ở đâu! Bố nó thế nào! Nó đã phải giã từ kiếp trước ra sao!” [5]. Kiếp trước của hắn bắt đầu từ một cuộc hôn nhân bất bình thường giữa một người đàn bà ngủ ngáy và ông chồng nghiện rượu. Lão Vắn vì nghiện rượu đã vô tình giết chết đứa con vô tội để rồi sống trong những ám ảnh ghê rợn, khi “đêm đêm hồn của nó vẫn quẩn quanh. Nó có mặt khắp nơi, lúc chui sâu vào giấc ngủ của lão, lúc chập chờn trong ánh nắng, lúc in hình trên bức tường loang lổ…”. Rồi những đêm trăng suông “hình bóng thằng con lúc ẩn lúc hiện, tiếng cười vô tư của nó cứ vỡ ra trong tiếng lật phật của những tầu chuối rách tướp, trong tiếng gió u u luồn qua vách lưới đầu hồi”… chờn vờn chờn vờn rồi mất hút khi “đám mây đen lướt tới, cái vực nở ra thành cái huyệt đen  ngòm” [5,tr.133]. Đau khổ, ân hận khiến cho người đàn ông khốn khổ đó đã dang rộng vòng tay đón Lù Tà về nuôi khi cha mẹ nó bị chết trong một trận mưa bão với hi vọng chuộc lại lỗi lầm đã gây ra. Sự dị kì về hình dáng của thằng Lù như mối nợ tiền kiếp cứ bám riết lấy cuộc đời của lão Vắn. Tưởng rằng trời ban ơn mang đến cho lão thằng bé để chuộc lại những lỗi lầm xa xưa khiến cả đời lão ân hận day dứt, nhưng oan nghiệt thay, Lù Tà trở về từ kiếp trước để hành hạ người cha đã vô tình hại chết nó: “Thằng bé giống như con quỷ nhập tràng. Thân nó ngắn chủn, nặng nề. Hai cẳng chân dài ngoẵng, gầy guộc như 2 cái tăm cắm vào củ khoai. Hai cẳng tay đầy lông lá dài chấm hai đầu gối, hệt như tay vượn. Khuôn mặt ngắn lông lá viền quanh minh chứng cho sự lại giống”[5,tr.134]. Đặc biệt là khuôn mặt nó – khuôn mặt bị lão quăng cái chày vào làm cho méo mó, dị dạng - như một nỗi ám ảnh, day dứt, hành hạ lão cho tới tận lúc chết: “Hai cánh mũi trồi hếch lên như hai cái cửa hầm. Ngược lại cái sống mũi tẹt lõm hẳn xuống như bị ai đó giáng vào đó một chày”[5,tr.134].
Rõ ràng, việc sử dụng những chi tiết kì ảo để miêu tả về sự ra đời một cách bất thường của những nhân vật phản diện giúp nhà văn lí giải về những hành động vô nhân tính của nhân vật về sau. Những nhân vật này giống như những quái thai lại giống của loài người, biến dạng từ phiên bản của loài vật - loài mãnh thú đội lốt người. Chẩu Po là kẻ khát máu điên cuồng chống phá cách mạng; Triệu Tá Sắn với tham vọng cuồng tín được làm vua cai trị cả một vùng rừng núi; Lù Tà là tên tay sai giết người không ghê tay chỉ cần được thoả mãn bản năng nhục dục. Chính yếu tố kì ảo đã cho người đọc cảm nhận khá sâu sắc về kiểu nhân vật phản diện. Việc sử dụng chi tiết kì ảo để miêu tả nhân vật phản diện là một lí giải có chủ đích của Đoàn Hữu Nam cho tính chất bản năng, hoang dã  của nhân vật.
Yếu tố kì ảo có thể là những điều lạ lùng, huyền bí, vừa chân thực, vừa hư huyễn mà một trong những đặc trưng của nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người đọc. Nhưng không thể hiểu đơn giản, kì ảo chỉ là cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra, phi hiện thực mà quan trọng hơn những cái đó phải tạo ra “hiệu ứng hoang mang” cho những người đối diện với nó, tạo ra sự kinh ngạc, cảm nhận khác thường đối với người tiếp nhận. Việc miêu tả sự ra đời của những tên thổ phỉ khát máu, giết người không ghê tay như Lù Tà, Triệu Tá Sắn hay Chẩu Po đã đạt đến độ đó.
Addison cho rằng sáng tác theo xu hướng kì ảo là tạo ra một loại khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng ta những câu chuyện mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên [dẫn theo 6]. Giấc mơ từ thời thơ ấu của Lay là một minh chứng như thế: “Lay thấy mình với Pò Quả, hai xác chết, một già, một trẻ bị một đám người trong bản háo hức mổ thịt, chia nhau. Hồn Lay theo tảng thịt về nhà một người nghiện rượu. Lão nghiện háo hức bỏ tảng thịt vào nồi nước sôi, mắt lão tròn lên, tảng thịt đỏ lòm nổi như cái phao, chạy xung quanh chảo đến rẽ nước. Lão vùng chạy, tảng thịt cũng nhảy ra khỏi chảo về nhà đập cửa gọi mẹ” [4, tr.167]. Trong miền kí ức sâu thẳm của Lay, những hình ảnh của tộc người Giáy với tục lệ chia thịt người chết từ thuở hồng hoang vẫn còn ám ảnh day dứt, nặng nề.
Không chỉ dừng ở đó, trong thế giới tâm linh, yếu tố kì ảo vẫn được nhà văn sử dụng khá phổ biến. Hình ảnh tờ giấy đe dọa của kẻ giết người gửi cho nhà họ Sần (Thổ phỉ) cháy rồi mà “tàn than còn nguyên hình dạng của nó bốc lên, xoáy tít, rồi đậu trùm lên bát nhang thờ tổ tiên trên bàn thờ, trông như một con bướm màu đen” [5, tr.7] như một tín hiệu dự báo về những điều chết chóc đen tối đang đến với dòng họ Sần. Hay những nén hương thắp cho linh hồn oan uổng của Sần Quang trước cái chết “bất đắc kì tử” không bắt lửa nhưng sau lời khấn cầu của ông Sần Đạt đã “bén lửa cháy đùng đùng, ông phải vẩy mấy lần, những ngọn lửa mới chịu thu mình vào trong những tàn than đỏ như màu máu” [5, tr.8]. Ngay cả hành động bất tỉnh nhân sự của Sần Đạt trước cái chết của thằng con trai cũng thật kì quái, hồn vía được miêu tả có hình có ảnh: “lơ lửng giữa chín tầng mây”, “bao quát vạn vật một cách nuối tiếc, rồi lặng lẽ chui vào cái hộp sọ đầy hang hốc”… Tất cả những hình ảnh, những hiện tượng đó đã tạo lên một màu sắc huyền bí, một sức mạnh vô hình trong thế giới tâm linh của con người miền núi.
Yếu tố kì ảo không chỉ có hiệu quả cao khi xây dựng hình tượng nhân vật mà còn được tác giả sử dụng thành công trong việc tạo ra một lớp màn linh thiêng bao trùm toàn bộ không gian trong tác phẩm, tạo nên một màu sắc riêng cho những tiểu thuyết viết về dân tộc và miền núi của nhà văn họ Đoàn. Nó phảng phất trong hình sông thế núi của những địa danh miền núi nơi  đồng bào dân tộc thiểu số quần tụ. Suối Hoa được coi là vùng đất “địa lợi”- nơi hội tụ của khí thiêng trời đất. “Ở nơi này, trời đất đóng kín bằng vòng vây núi non, song lại mở ra cho nó một tiểu vũ trụ, một  sự cân bằng như sắp đặt”…Màu đất ở Suối Hoa cũng không giống những nơi khác mà “vàng tươi như ai đó lấy đỗ xanh xát vỏ, đồ thành xôi rồi rải ra khắp đồi khắp ruộng”. Rồi “Những phiến đá đen nhẵn lỳ như đá mài, được giời đất xếp chồng lên nhau, tạo thành những cái tháp kì vĩ, huyền bí.. hội tụ đủ cả âm dương ngũ hành” [5, tr.11]. Ngay cả nguồn nước người dân Phòng Tô dùng để cúng trời đất tổ tiên cũng là nước thiêng được lấy từ “mỏ nước tận trên thượng nguồn, nơi ngọn núi chúa vồng ra như bộ ngực. Từ bộ ngực ấy hai dòng nước một nóng, một lạnh ngày đêm tuôn ra như hai dòng sữa. Nơi hai dòng sữa hợp nhau chính là mỏ nước thiêng của cả vùng” [5, tr.119,120].
Đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên, đất trời cũng được tác giả miêu tả với nhiều yếu tố kì ảo, khác lạ. Trong ngày lễ lên ngôi của vua Dao - Triệu Tá Sắn, sau khi hắn khấn xong thì: “Bầu trời vần vũ, từng đám mây đen ùn ùn kéo tới, phút chốc mặt trời chìm nghỉm trong cái ô mang màu chết chóc. Dưới đất rừng núi lặng phắc như trước đám tang, lam sơn chướng khí bốc lên ngùn ngụt khiến từng đàn chim lao ra khỏi tổ kêu inh ỏi, từng đàn khỉ, vượn lao ra khỏi hang ngửa mặt lên trời hú hét”[4,tr.48]. Hiện tượng này như dự báo trước một hiểm hoạ bất thường sắp xảy ra. Đặc biệt là chi tiết tái hiện cảnh làm lễ lên ngôi: “Mở đầu của lễ, chậu nước rửa tay của thầy, của người thụ lễ biến thành chậu máu. Vào lễ, con gà sống sau khi cắt tiết đầu một nơi, thân một nẻo vẫn bay loạn xạ quanh hang” [4, tr.49]; Khi mổ bụng con dê làm lễ “quả mật to như quả gấc dính với lá gan, lá lách lằng nhằng” [4,tr.58]…. Những chi tiết bất thường, lạ hoá này như là lời dự báo cho một tương lai đầy chết chóc đang đón đợi nhân vật ở phía trước.
Hiện tượng mưa, gió cũng được miêu tả lạ lùng, kì quái như: “trong một đêm mưa gió, lưỡi tầm sét bất ngờ chụp xuống thiêu rụi cả nhà cửa, cây cối. Trong trận giời vật ấy, chín con người cùng của cải gom góp bao nhiêu năm của bẩy nhà trong xóm bị biến thành than” [5, tr.6]. Trong đám tang của Sần Quang, mưa gió thật rùng rợn, kinh dị: “phía núi Rồng nghe một tiếng ục âm âm, rồi tiếp theo là tiếng nước đổ, tiếng đá lở, cây gẫy át cả tiếng sấm chớp, mưa gió. Tiếng khóc hờn căm tức tưởi hoà với tiếng thét của trời đất đã kéo theo cả loạt tiếng khóc tiếp theo như dây chuyền, khiến cho ai cũng có cảm tưởng như mình đang cùng trời đất xả hết nỗi thống khổ với thế gian” [5, tr.18]. Sự đồng cảm của đất trời trước nỗi đau của lòng người hay sự hận thù của dòng họ Sần trước tai vạ mà dòng họ Hồ reo rắc đã tạo nên sự cộng cảm giữa con người và thiên nhiên ? Mưa gió như điềm báo về sự bất bình của lòng trời và lòng người vậy !
Chi tiết về đàn kiến dưới sự nổi giận của vua kiến đã tạo ra hai cuộc thảm sát khiến người đọc không thể xác định được các sự kiện đang diễn ra trong thế giới thực hay trong phạm vi cái siêu nhiên. Nó mang đậm chất quái dị và ghê rợn. Đoàn Hữu Nam đã miêu tả sinh động, chi tiết cái kết cục thảm khốc của cuộc tương tàn hổ - kiến trong tác phẩm của mình: “Sau một buổi đàn hổ không còn, những con vật biết cựa quậy không còn, rừng núi rã rời, tan hoang để rồi mãi mãi trở thành vùng đất chết” [5, tr.69]. Cuộc nổi giận của vua kiến khi con người chiến tranh với nhau dẫn đến thảm cảnh: “Xác kiến, xác người, xác động vật, cây cối, phân gio bốc lên khét lẹt, gây như nướng cả rừng người. Cả hai bản bị xoá sổ từ vết máu đến ống xương mà vẫn chưa thoả mãn những hàm răng đói khát của những đàn kiến” [5, tr70].
Trong Thổ phỉ chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những chi tiết kì ảo như vậy: suối đổi màu, mặt trời nhuộm máu… thể hiện trí tưởng tượng phong phú của nhà văn tạo nên những mảng màu khá đặc sắc là điểm nhấn đậm tính rùng rợn, ma mị đối với độc giả khi tiếp cận.

Tài liệu tham khảo
[1].Sương Nguyệt Minh, Thế giới nghệ thuật Đoàn Hữu Nam trong tiểu thuyết Thổ phỉ (thay lời tựa), trong cuốn “Thổ phỉ” (Đoàn Hữu Nam), Nxb Hội Nhà văn, 2010.
[2]. Phạm Duy Nghĩa, Đọc Trên đỉnh đèo giông bão” của Đoàn HữuNam, Tạp chí Văn hoá các dân tộc, 2006
[3]. Phạm Duy Nghĩa, Làm mới một đề tài (Đọc tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn Đoàn Hữu Nam, Nxb Hội nhà văn, 2010- Giải A Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam 2010 ) Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, 2012.
[4]. Đoàn Hữu NamThổ phỉNxb Hội Nhà văn, 2010.
[5]. Đoàn Hữu NamTrên đỉnh đèo giông bão (tái bản), Nxb Lao động, 2010.
[6]. Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8, 2006.

TÓM TẮT
Đoàn Hữu Nam là một trong những tác giả có đóng góp cho văn học viết về dân tộc và miền núi đương đại. Ông nổi tiếng với những tiểu thuyết:Thổ phỉ, Tình rừng, Trên đỉnh đèo giông bão… Trong tiểu thuyết của ông, yếu tố kì ảo được sử dụng khá phổ biến nhằm thể hiện thế giới nghệ thuật mới mẻ, độc đáo. Việc sử dụng yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết của Đoàn HữuNam đã mở ra những không gian nghệ thuật mới, hình tượng nghệ thuật sinh động, hấp dẫn, thế giới tâm linh bí ẩn. Đây có thể coi là đóng góp riêng của nhà văn Lào Cai này cho văn học viết về dân tộc và miền núi.
Từ khoá: Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam; Văn xuôi viết về dân tộc và miền núi.


SUMMARY

Doan Huu Nam is one of the authors contributed to the written literature on mountainous and ethnic literature areas. He is known for novels: Tho phi, Tinh rung, Tren đinh đeo giong bao… In his novels, period factors used quite popular virtual world to show new art, unique. The use of virtual term in the novel elements of Doan Huu Nam has opened a new art space, vivid art image, attractive, mysterious spiritual world, ghost. This can be considered as writer's own contribution to Lao Cai for literature written in ethnic minority and mountainous areas.
Keywords: Novel Doan Huu Namprose writing about ethnic andmountainous.

Không có nhận xét nào:

Bài đăng phổ biến